( Lagertroemia fios – reginae Retz.)
Tên đổng nghĩa: 1789; L. reginae Roxb. 1795
Tên khác: Tử vi tàu. bằng lăng tiên.
Họ:Tử vi-lythraceae
Hình thái cây bằng lăng nước.
Cây gỗ trung bình, rụng lá, cao 12-18m, đường kính 20-40cm. tán hình trứng rộng, dầy, xanh thẫm. thân không thật phẳng, phân cành sớm, cành mọc ngang với rất nhiều cành nhỏ mang lá. vỏ nâu xám, ít nứt, thịt vỏ mỏng màu vàng nhạt, dày 1-l,2cm.
Cành nhẵn, màu xanh. Lá đơn, nguyên, mọc cách hay gân đôi, không lá kèm, hình trứng rộng hay bầu dục, dài 10-18cm, rộng 6-12cm; phiến dai, dày, khi non màu xanh nhạt, khi già màu đỏ.
Cụm hoa chùm, mọc ở đỉnh cành, hình tháp, mang nhiều hoa, Nụ hoạ hình cầu, màu tím hổng. Lá dài 6 hợp thành ống với 6 dải lồi và 6 rãnh nông. Cánh hoa 6, nhăn nheo trong nụ và khi mới nở, màu đỏ tím hay tím hồng, có cựa ngắn. Nhị đực nhiều, dính ở giữa ống dài; ô phấn có trung đới tròn; bầu 6 ô.
Quả nang, hình trứng, kích thước 20x18mm, nằm trong đài tồn tại, mờ theo 6 mảnh, tổn tại rất lâu trên cây. Hạt có cánh mềm.
Các thông tin khác về thực vật.
Bàng lăng (Lagertroemia L.) là một chi lớn của họ Tử Vi. Riêng ở Việt Nam dã thống kê được trên 20 loài thuộc chi này. Do có hoa to đẹp, với nhiều màu sắc nên nhiều loài thuộc chi Bàng lăng đã được sử dụng làm cảnh từ lâu đời. Gần đây các nhà chơi cảnh có đưa thêm một số loài thuộc chi Bàng Lăng {lagertroemia) vào trồng ờ các thành phố lớn làm cây cảnh và cây bóng mát như-
1/ Tường vi / Từ vi tàu {L. indica Linn, hay L. chinensis Lam.) Cầy bụi hay gỗ nhỏ có nguồn gốc từ Trung Quốc Lá nhỏ dài 3-3,5cm. Hoa màu tim hay tím hồng, cánh hoa có móng bonsai và cây cảnh.
Phân bố cây bằng lăng nước.
Việt Nam:
Bằng lăng nước mọc hoang dại ở các tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ như: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa thiên Huế,komtum, Gia Lai,Dak Lak, và vùng Đông Nam Bộ;Đồng Nai, Bình Phước. Hiện nay được trồng ở hầu hết các thành phố và thị xã của các tỉnh ở Việt Nam.
Thế giới
Đặc điểm sinh học cây bằng lăng nước.
Ở Việt Nam bằng lăng nước là loài cây phân bố trong các kiểu rừng nửa rụng lá và rừng khô rụng lá cùng với loài bàng lăng vò nhẵn (Lagertroemia calyculata), nhưng không phổ biến và nhiều cá thể bằng loài bằng lăng này, vì bằng lăng nước đòi hòi đất sâu. dày và ẩm hơn.
Cây có biên độ sinh thái rộng; thường gặp mọc ven bờ sông suối, hồ và đầm nước ngọt, thường phân bố ven các rùng nguyên sinh hoặc rừng thứ sinh cửa các khu rừng nêu trên. Thường mọc xen với các loài cây rụng lá khác như: Bằng lăng ổi, chiêu liêu đen, dầu song nàng, gáo lá tim…
Bằng lăng nước là cây ưa sáng khi trưởng thành, nhưng khi non hơi ưa bóng, vì vậy nên nó phát triển tốt dưới tán rừng có tàn che nhẹ 0,2-0,3. Cây tái sinh bằng chồi tốt; tái sinh tự nhiên bằng hạt kém, thưòng tái sinh thiên nhiên tốt nơi quang trổng, trên các đất đã bị bò hóa, nhưng khả năng cạnh tranh với cỏ dại kém, nên quanh cây mẹ thường ít gặp cây bằng lăng con.
Cây rụng lá vào đầu mùa đông, ra lá non tháng 3 và tháng 4. Mùa hoa tháng 5-6, mùa quả tù tháng 8 tháng 10.
Công dụng cây bằng lăng nước.
Cây cho gỗ kích thước trung bình, thường không thẳng, nhưng cứng và bền, tỷ trọng 0,5-0,8 dùng làm cột, các dụng cụ thông thường, đồ gỗ, khung cửa. Cũng dùng làm nguyên liệu cho công nghệ bột giấy.
Cây có dáng đẹp: thân xù xì, ít thẳng, cành nhiều gần như nằm ngang làm cho tán cây có nhiều tầng; lá lớn màu xanh đậm, khi già chuyển màu đỏ hay tím, mùa đông rụng lá, đầu xuân ra lá non xanh biếc hay nâu hồng; hoa dẹp rực rỡ, màu tím hồng, có thể biến màu (buổi sáng màu hổng, buổi chiều chuyển sang màu tím), rất hấp dẫn, lại nờ vào dịp đầu hè, lúc nhiều cây đường phố khác dã tàn nên được nhiều người ưa thích và đã dược trổng trong công viên, trong vuờn nhà, vườn công sở.
Bằng lăng nước lại có chiều cao trung bình, không vượt quá tầm cao của dây diện nên thường được chọn làm cây bóng mát và cây cành trổng ven đường ờ các khu phố có nhà xây thấp tầng, trong các đô thị, thị trấn và thị xã. Sau khi trổng 4 năm, cây đã bắt đầu ra hoa. Các kiến trúc sư đô thị thường sử dụng cây bàng lăng cùng với một sỗ’ cây hoa và bóng mát khác để tạo nên nhưng cảnh quan vui mắt ờ các đường phố, các vườn hoa, công viên hoặc nhiểu nơi khác trong đô thị.
Quả bằng lăng nước kết thành chùm, khống ăn dược, không hấp dẫn ruổi nhặng; khi khô quả mở ra cho hạt rụng xuống, còn quả vẫn tổn tại lâu trên cây với mầu nâụ đen. Đây là một nhược điểm của cây, nên khi thu hoạch hạt cần hái toàn bộ quả trên cây
Cây mọc khỏe, nẩy chồi mạnh nên có thể xén tỉa dễ dàng và rất thích hợp trồng làm cây bonsai, cây thế. bằng lăng nước cũng được trồng làm gốc ghép để ghép các chồi cây có hoa đẹp khác thuộc chi Bằng Lăng.
Hoa có chứa tinh dầu có mùi thơm dịu nên có thể dùng chế nước hoa.
Kỹ thuật nhân giống, gây trồng
Hạt giống. Hạt có cánh, màu nâu nhạt, hơi cứng, thường bị bất thụ. Hạt nhe, khoảng 200.000 hạt/kg. Có thể cất trữ ở điều kiện không khí bình thường trong năm. Do hạt nhẹ, kích thước rất nhỏ nên việc gieo thẳng thường ít áp dụng mà chỉ áp dụng việc gieo ươm.
Gieo ươm. Tỷ lệ nảy mầm của hạt thấp, thường chỉ 30-40%. Hạt nảy mầm sau khi gieo khoảng 12 ngày. Cần phải che bóng nhẹ và tưới thường xuyên trong gai đoạn vườn ươm.
Cũng thường trổng bằng stump (với đoạn chổi có chiều dài 5-10cm) bằng hom rễ dài 10-20cm, đường kính cổ rễ 0,5-2cm.
Kỹ thuật trồng. Trồng trong công viên, dường phố phải để cây con ờ vườn ươm. trong thời gian 2 năm đến 2 nãm rưỡi hoặc 3 năm, khi cây đạt chiều cao trên 2m mới có thể đem trồng.
Nếu trồng nơi quang trống, thân thường bị cong, vì vậy trong trồng rừng cần trồng mật độ dầy 2,5x1m, sau tỉa thưa dần. Có thể trồng với các loài cây ưa sáng khác Trong trồng rừng có thể trồng xen với giáng hương, bản xe, xoan và mội số cây họ đậu khác. Cây chịu khô kém, nên phải trồng trên đất đủ ẩm .